top of page
Lecture on Religion

TÌM HIỂU TÔN GIÁO

HỒI GIÁO [ISLAM]

Islam: Hồi giáo.
Muslim: Người theo Hồi giáo.
Allah: Tên Thượng Đế của Hồi giáo.
Quaran “Koran”: Kinh của Hồi giáo. (Họ tin Đức Chúa Trời ban cho Mohammad, khải thị cuối cùng của Đức Chúa Trời sau Kinh thánh).
Mohammad: Người sáng lập Đạo Hồi (họ cho là tiên tri cuối cùng và lớn nhứt, nhưng họ không thờ phượng).

5 ĐIỀU [CỘT TRỤ NIỀM TIN] MÀ NGƯỜI THEO ĐẠO HỒI PHẢI LÀM

  1. Tin Allah là Thượng Đế tối cao, và Mohammad là tiên tri của Allah.

  2. Cầu nguyện mỗi ngày 5 lần. Nếu cầu nguyện ở đền thờ vào Thứ sáu thì tốt và được khen thưởng, (Thứ sáu là ngày thánh).

  3. Bố thí cho người nghèo.

  4. Kiêng ăn vào tháng chay Ramadan.

  5. Phải hành hương Thánh địa Messa (ở Saudi Arabia) ít nhứt 1 lần trong đời.


5 ĐIỀU HỒI GIÁO KHÔNG TIN NƠI CƠ ĐỐC GIÁO

  1. Cho Cơ Đốc Giáo phạm thượng vì thờ 3 ngôi Đức Chúa Trời, mà không thờ lạy duy nhứt một Đức Chúa Trời. Họ cho 3 ngôi là: Đức Chúa Trời, bà Ma-ri, và Chúa Jêsus.

  2. Đức Chúa Trời không có 3 ngôi.

  3. Không tin Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, và không tin Chúa Jêsus chết trên Thập tự giá, mà là người khác giống Chúa Jêsus.

  4. Chúa Jêsus không phải là Đức Chúa Trời, chỉ là tiên tri của Đức Chúa Trời.

  5. Kinh thánh của Cơ Đốc Giáo đã sai trật từ khi dịch lại bản chính, nên không còn đúng sự thật.


10 VỊ TIÊN TRI HỒI GIÁO TIN
A-đam, Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, Giô-sép, Môi-se, Đa-vít, Chúa Jêsus, Mohammad.

QUYỀN LỢI CHO NGƯỜI TỬ ĐẠO (JIHAD)

  1. Mọi tội lỗi trót lỡ gây ra sẽ được xóa sạch.

  2. Không phải bị đày trong địa ngục (hầm mộ) để luyện tội.

  3. Thượng Đế sẽ giữ sẵn một chỗ trên thiên đàng.

  4. Sẽ được đăng quang với một vương miện bằng đá quý “đá thiêng” gọi là Yaqutah.

  5. Có căn nhà lầu to trên thiên đàng.

  6. Trên thiên đàng sẽ được Thượng Đế gã cho 72 trinh nữ tuyệt đẹp.

  7. Được miễn truy cứu trong ngày phán xét cuối cùng.

  8. Được phép dắt “bảo lãnh” lên thiên đàng 70 người thân.

MẶC-MÔN [MORMON]

Tên: Mormon [Mặc-môn], sở dĩ Hội có tên Mormon là vì những tín lý của hội đặt nền tảng trên Sách Mặc-môn (The Book of Mormon).

 

Quyển sách Mặc-môn do ông Joseph Smith, Jr. Ông cho rằng ông đã được vị thiên sứ tên Moroni chỉ điểm cho ông chỗ chôn dấu những tấm bia vàng chứa đựng lịch sử Mỹ châu thời cổ, viết bằng tiếng Ai-cập hiện đại. Theo truyền thuyết của Hội Mặc-môn tin rằng ông Smith được ban cho hai hòn đá trong suốt và xuyên qua đá đó ông có thể đọc và dịch các bia vàng kia ra Anh ngữ. Câu chuyện chính của sách Mormon nói về dòng dõi của một người công chính tên là Le-hi và một vài người khác rời Giê-ru-sa-lem trong đời vua Ê-xê-chia trị vì khoảng 600BC. Sau đó được sự hướng dẫn thiên thượng, đoàn người nầy vượt đại dương đến Nam Mỹ và lập nghiệp tại đây. Rất tiếc các sự kiện trong quyển Mormon không phù hợp với các cuộc khảo cổ hay dữ kiện lịch sử và khoa học. Một đặc điểm đáng ghi là có nhiều phần trong quyển Mặc-môn lại rất giống như Kinh thánh, như là:

  • Sách Moroni đoạn 10 giống như I Côrinhtô 12:1-11.

  • Sách II Nephi 14 giống như Ê-sai 4 và 2.

 

Chứng tỏ Joseph Smith đã dùng Kinh thánh để bổ sung cho điều mà ông nói được sự khải thị của các bản văn bằng vàng của ông.

Ngoài quyển Mặc-môn ra họ còn có những quyển khác nữa là: “Lẽ Đạo và Giao Ước; Lời Ngọc Vô Giá”. Những văn phẩm nầy họ xem trổi hơn cả Kinh thánh.

Nhiều Giáo Lý của Mặc-môn trái nghịch với lời Chúa dạy trong Kinh thánh. Mặc-môn dạy rằng:

  • Đức Chúa Trời có xương thịt và hình thể như loài người. Joseph Smith tin rằng Đức Chúa Trời vốn là một người như chúng ta và hiện nay Ngài đã trở nên vinh hiển. Đây là một điều sai lầm lớn, vì Chúa Jêsus đã nói cho người đàn bà Sa-ma-ri trong sách Giăng 4:24 rằng: “Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.”

  • Còn về Chúa Cứu Thế Jêsus thì một phương diện họ công nhận thần tánh của Ngài nhưng phương diện khác thì họ cho Ngài ngang hàng với loài người. Joseph Smith đã ghi lại như sau: “Chúng tôi nhận Jêsus Christ là Đức Chúa Trời, là Con độc sanh của Cha trong phần xác và là con đầu nhứt trong phần linh. Cho nên Ngài là anh cả của chúng tôi, vì chúng tôi cũng là con cái của Đức Chúa Trời.” Dĩ nhiên chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời trong ý nghĩa Ngài dựng nên chúng ta trong Ađam nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta ngang hàng với Chúa Jêsus-Christ là Đấng có đầy đủ bồn tánh của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời còn con người là loài vật thọ tạo. Kinh thánh viết rằng: “Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời…” (Phi-líp 2:6). “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời” (Giăng 1:1-2). “Ta với Cha là một” (Giăng 10:30).

  • Một điều sai lầm quan trọng nữa là Hội Mặc-môn không nhận Chúa Jêsus được cưu mang bởi Thánh Linh, trong khi đó Kinh thánh ghi lại cho chúng ta lời của thiên sứ Gáp-ri-ên nói với bà Ma-ri như sau: “Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng rất cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình…” (Luca 1:35). Và Thiên sứ nói với ông Giô-sép “Hởi Giô-sép, con cháu Đa-vít, ngươi chớ ngại lấy Ma-ri làm vợ, vì con mà người chịu thai đó là bởi Đức Thánh Linh.” (Ma-thi-ơ 1:20).

  • Người Mặc-môn tin rằng Chúa Jêsus là người đa thê. Theo ông Brigham Young, vị lãnh đạo kế của ông Joseph Smith cho rằng các bà Ma-ri, Ma-thê, Ma-ri Ma-đơ-len là vợ của Chúa Jêsus và tiệc cưới tại Ca-na trong sách Giăng đoạn 2 là một trong các tiệc cưới của chính Chúa. Do đó họ chủ trương việc sống đa thê, nhứt là tại tiểu bang Utah, Hoa Kỳ. Cả hai Joseph Smith và Brigham Young đều có nhiều vợ. Joseph Smith có gần 50 người vợ, còn Brigham Young có 27 vợ và 56 con.

  • Về sự cứu rỗi, Mặc-môn dạy rằng: “Đức tin và việc làm cần phải có mới đạt sự cứu rỗi trọn vẹn.” Trong khi đó Kinh thánh xác nhận sự cứu rỗi bởi đức tin đến Chúa Cứu Thế mà thôi, còn việc làm là bông trái của sự cứu rỗi “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Ê-phê-sô 2:8-10). Vì lý do đó mà chúng ta thấy người Mormon đi ra làm chứng sốt sắng là vì muốn làm trọn sự cứu rỗi của họ chớ không phải như người Cơ Đốc con cái Chúa đi ra làm chứng là vì vâng lời Chúa dạy và yêu thương đến linh hồn hư mất của người khác, “Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân…” (Ma-thi-ơ 28:19). “Đừng mắc nợ ai chi hết, chỉ mắc nợ về sự yêu thương nhau mà thôi” (Rô-ma 12:8).

  • Một điều hấp dẫn khác nữa là Mặc-môn chủ trương làm Báp-têm cho người chết. Họ dạy rằng “dù người đã chết rồi bao lâu không cần biết, nhưng nếu được con cháu hay người thân đang còn sống hiện nay bằng lòng chịu thánh lễ Báp-têm thay cho, thì người đó sẽ hưởng được sự cứu rỗi, và sẽ cùng đoàn tụ hưởng phước trên thiên đàng trong khung cảnh của một gia đình hạnh phúc. Vì vậy hiện nay Mặc-môn có một dịch vụ “Sưu tầm gia phả của tổ tông” lớn nhứt thế giới và thu vô số tiền bạc qua dịch vụ nầy. Nơi làm Báp têm trong đền thờ của Mặc-môn tại tiểu bang Utah được thiết trí rất là tôn nghiêm và sang trọng. Tất cả các dụng cụ và hồ nước đều bằng đá quý. Và nghi lễ chỉ dành cho người thân thuộc tham dự mà thôi. Trong khi đó Kinh thánh dạy rằng: Báp-têm là hình ảnh chết đời sống cũ, và sống đời sống mới với Chúa Jêsus Christ, “Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép Báp-têm trong sự chết Ngài hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống lại trong đời mới thể ấy” (Rô-ma 6:4).

 

Mặc-môn là một tổ chức rất chu đáo và hấp dẫn, những người đi ra làm chứng đã được huấn luyện kỹ lưỡng, gương mặt của họ lúc nào cũng tươi cười, cỡi mở, lịch sự và rất dễ thương. Chúng ta tiếc về sự sai lạc chân lý của họ, và cũng tiếc cho Cơ Đốc thuần túy của chúng ta vì không có mấy người đi ra đem Tin lành cứu rỗi cho người chưa biết Chúa.

 

Xin chúng ta tự hỏi “Đời sống của mình có gì hấp dẫn để khiến cho người khác tìm hiểu Tin Lành của Chúa?” Lời Chúa dạy: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu thương nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy. Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta” (Giăng 13:34-35).

HỘI CHỨNG NHÂN GIÊ-HÔ-VA [JEHOVAH'S WITNESSES]

Tên: “Nhân Chứng Của Đức Giê-hô-va” vì cho rằng chỉ có những người theo hội nầy là người chứng của Chúa trên trần gian, họ dựa vào câu Kinh thánh được chép trong [Ê-sai 43:10] “Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi đều là người làm chứng và ta là Đức Chúa Trời.”


Các thời điểm lịch sử:

  • Hội Nhân Chứng Giê-hô-va do ông Charles Taze Russell bắt đầu vào năm 1870 tại tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Hiện nay trụ sở đặt tại New York. Từ khi còn nhỏ, ông Russell đã có một mối lo sợ kỳ lạ về địa ngục. Người ta kể rằng ông thường viết trên hè phố những lời cảnh cáo về lửa địa ngục. Năm 17 tuổi, ông Russell gặp một người nói rằng địa ngục không có thật. Ông thấy người ấy có lý và cũng từ đó ông cho rằng không có địa ngục.

  • Năm 18 tuổi, ông Russell vào nhà thờ gặp lúc người ta đang thảo luận về vấn đề Chúa Jêsus trở lại trần gian lần thứ hai. Đề tài nầy lôi cuốn và thúc đẩy ông nghiên cứu Kinh thánh để tìm xem khi nào Chúa Jêsus trở lại. Không lâu sau đó ông lại xuất bản một tập sách nhỏ tựa đề “Đối Tượng và Phương Cách Của Việc Chúa Trở Lại” (The Object And Manner Of The Lords Return). Ông lấy nhiều câu Kinh thánh liên kết lại với nhau và tuyên bố rằng: “Chúa Jêsus sẽ trở lại trần gian vào năm 1874. Sau đó ông lại đổi ngày, lần nầy ông nói Chúa sẽ trở lại vào năm 1914, nhưng không trở lại với con người bằng xương bằng thịt, nhưng với tính cách thần linh, không ai thấy được.”

  • Năm 1874, ông Russell được cử làm Mục sư của một lớp học Kinh thánh mà ông đã hướng dẫn trong suốt 4 năm. Hội Nhân Chứng Giê-hô-va bắt đầu được thành lập từ đó, vì đây cũng là năm mà ông cho rằng Chúa Jêsus sẽ trở lại, và ông cũng là lãnh tụ của nhóm người mà Chúa sẽ mặc khải.

  • Năm 1879, ông Russell bắt đầu cho xuất bản tờ báo Zions Watchtower And Herald Of Christs Presence. Tờ báo nầy đã giúp cho phong trào bành trướng rất  mau. Chỉ 1 nắm sau đã có thêm 30 hội mới trong 7 tiểu bang.

  • Năm 1881, Hội Nhân Chứng Giê-hô-va được chính thức thành lập với tên là Zions Watch Tower And Tract Society.

  • Năm 1884, hội có đủ tư cách pháp nhân và phong trào Nhân Chứng Giê-hô-va chính thức thành hình. Ông Russell rất thành công trong việc tổ chức nhưng lại thất bại trong nhiều lãnh vực khác. Trước hết, ông bị mất tín nhiệm trong việc quảng cáo một loại hạt giống lúa mì mà ông gọi là “Hạt giống thần” (Miracle Wheat). Ông nói hạt giống nầy sẽ kết quả gấp năm lần hạt giống thường, nhưng thực tế đã không xảy ra đúng như lời ông đã tuyên bố. Một tờ báo địa phương (Broklyn Daily Eagle) đã vẽ bức hình hí họa chế nhạo ông. Ông kiện tờ báo về tội thóa mạ nhưng lại bị thua kiện vì ông không chứng minh được hiệu năng của loại “hạt giống thần”.

  • Năm 1879, ông Russell kết hôn với cô Maria Frances Ackley. Ông cử bà làm tổng thư ký và thủ quỹ của hội, đồng thời ông làm chủ bút tờ báo Tháp Canh (Watchtower). Sau nhiều năm làm việc, bà bất bình vì ông đã sửa và thay đổi bài của bà quá nhiều. Năm 1913 bà xin tòa ly dị, vì theo bà, ông Russell là người “gian dối, ích kỷ, độc tài, và có những hành vi không đứng đắn đối với phụ nữ.” Ngoài ra, ông Russell còn phải ra tòa hai lần nữa, lần nào cũng bị kết tội là đã khai gian về khả năng cổ ngữ và chức vụ Mục sư mà ông không được chính thức thụ phong.

  • Ông Russell chết vào năm 1916, và ông Joseph Franklin Rutherford được cử làm người kế vị. Ông Rutherford là người giỏi tổ chức nên đã giúp hội phát triển rất nhanh.

  • Năm 1942, ông Rutherford từ trần và ông Nathan Homer Knorr kế vị. Ông Knorr nhấn mạnh về chương trình huấn luyện và xuất bản Kinh thánh mới theo giáo lý của Hội Nhân Chứng Giê-hô-va lấy tên là The New World Translation.

  • Ông Knorr qua đời vào năm 1977, và người lãnh đạo Hội Nhân Chứng Giê-hô-va hiện nay là ông Fredrick W. Franz.


Hội Nhân Chứng Giê-hô-va hiện đang hoạt động mạnh khắp nơi trên thế giới với số hội viên khoảng hơn 3 triệu. Tờ báo Tháp Canh được xuất bản trên 80 thứ tiếng khác nhau.

GIÁO LÝ CỦA HỘI NHÂN CHỨNG GIÊ-HÔ-VA

  1. Phủ nhận giáo lý Chúa Ba Ngôi.

  2. Phủ nhận tính cách bất tử của linh hồn. Họ tin rằng linh hồn không bao giờ lìa khỏi xác.

  3. Phủ nhận thần tính của Chúa Jêsus, cho rằng Chúa Jêsus cũng chỉ là vật thọ tạo chớ không phải là Đức Chúa Trời.

  4. Phủ nhận giáo lý được cứu bởi đức tin, cho rằng Chúa Jêsus chết để tạo dịp tiện cho con người làm điều tốt để được cứu.

  5. Phủ nhận sự sống lại trong thân xác của Chúa Jêsus, cho rằng Chúa Jêsus chỉ sống lại về phần hồn.

  6. Phủ nhận sự tái lâm của Chúa Jêsus trong một thân thể mà mắt con người có thể thấy được. Họ tin rằng Chúa Jêsus đã tái lâm vào năm 1914 và Ngài đang cai trị thế giới nầy.

  7. Phủ nhận sự hiện hữu của địa ngục và hình phạt đời đời. Họ tin rằng, những người không theo đúng tiêu chuẩn của họ sẽ bị tiêu hủy, nghĩa là không còn hiện hữu nữa chớ không bị hình phạt.

Hội Nhân Chứng Giê-hô-va chống lại việc đi lính vì cho rằng chính quyền là công cụ của ma quỷ. Họ cũng không chịu chào quốc kỳ của bất cứ quốc gia nào vì cho rằng họ công dân của nước Chúa, không thuộc về bất cứ quốc gia nào trên thế gian nầy.

Hội Nhân Chứng Giê-hô-va cũng chống lại việc truyền máu, vì cho rằng “truyền máu” cũng giống như “ăn huyết”. Họ không kỷ niệm sinh nhật, Lễ Giáng Sinh, và Lễ Phục Sinh vì cho rằng sinh nhật là đề cao cá nhân, còn Lễ Giáng Sinh và Phục Sinh là tục lệ của dân ngoại.

HAI ĐIỂM SAI LẦM CĂN BẢN CỦA HỘI NHÂN CHỨNG GIÊ-HÔ-VA

  1. Không nhận Chúa Jêsus là Thượng Đế.

  2. Không nhận giáo lý được cứu bằng đức tin.

Please reload

bottom of page